70 năm sau, người đàn ông tiết lộ câu chuyện sống sót sau khi gia nhập đội quân cảm tử Kamikaze
Kazuo Odachi là một trong những thành viên còn sống cuối cùng của nhóm cảm tử – nhóm người khi ra đi không có ý định sẽ sống sót quay về. Qua câu chuyện của mình, người này muốn gợi nhắc cho con người ngày nay về những thành tựu có được nhờ sự hy sinh của các phi công trẻ, những đồng đội đã ngã xuống của ông.
Trong hơn sáu thập kỷ, Kazuo Odachi đã che giấu một bí mật. Năm 17 tuổi, anh trở thành phi công cho đội quân Kamikaze bao gồm hàng nghìn thanh niên Nhật Bản được giao nhiệm vụ hy sinh mạng sống của họ trong nhiệm vụ cuối cùng gần cuối Thế chiến II.
Ảnh https://www.nytimes.com/2020/12/03/world/asia/japan-kamikaze.html
Khi xây dựng gia đình và sự nghiệp với tư cách là cảnh sát Tokyo, anh giữ bí mật của mình với hầu như tất cả mọi người, ngay cả vợ anh, người chỉ biết rằng anh từng là một phi công Hải quân Nhật Bản. Anh cảm thấy trải nghiệm này quá khó để giải thích đối với một xã hội chủ yếu coi Kamikaze là những kẻ cuồng nhiệt tình nguyện cho một sự hy sinh khó lý giải.
Nhưng qua nhiều năm, khi mối quan hệ phức tạp của Nhật Bản với chiến tranh thay đổi, ông Odachi bắt đầu chia sẻ câu chuyện của mình với một nhóm nhỏ bạn bè. Năm 2016, ông xuất bản một cuốn hồi ký, kể lại quá trình mất ngủ mỗi đêm và tự hỏi liệu ngày mai có đến lượt mình qua đời rồi bị tuyên bố mất tích hay không. Cuốn sách được phát hành bằng bản dịch tiếng Anh vào tháng 9, kỷ niệm 75 năm ngày xung đột chấm dứt.
“Tôi không muốn bất cứ ai quên rằng Nhật Bản tuyệt vời ngày nay được xây dựng trên nền tảng cái chết của họ,” Odachi nói trong một cuộc phỏng vấn gần đây tại nhà riêng.
Ảnh https://www.nytimes.com/2020/12/03/world/asia/japan-kamikaze.html
Kamikaze thuờng bị xem là ví dụ sinh động về sự nguy hiểm của chủ nghĩa dân tộc nhiệt thành và chủ nghĩa cuồng tín võ thuật. Thế nhưng, với những người từng trải qua cuộc chiến, Kamikaze là hiện thân của các đức tính truyền thống và tinh thần hy sinh bản thân mà họ tin rằng đã mai một trong xã hội Nhật Bản hiện đại.
Còn đối với phe cánh tả, những phi công này là một phần của thế hệ bị tiêu diệt bởi chủ nghĩa quân phiệt Nhật Bản và là lời nhắc nhở mạnh mẽ về tầm quan trọng của việc duy trì chủ nghĩa hòa bình sau chiến tranh của đất nước.
Thế nhưng, bản thân ông Odachi ít quan tâm đến chính trị. Ông chào đón mọi vị khách đến thăm ngôi nhà của mình ở ngoại ô Tokyo và có hứng thú nghe ông kể chuyện ngày xưa. Ông Odachi tái hiện lại những cảnh chiến tranh xưa một cách sống động bằng toàn bộ cơ thể của mình.
Ông cũng rất kiên quyết thể hiện quan niệm chống chiến tranh và cho rằng Hiến pháp theo chủ nghĩa hòa bình của Nhật Bản đang hoạt động rất tốt. Nhưng đồng thời, ông ấy vẫn là người ủng hộ mạnh mẽ cho quyền tự vệ của đất nước. Ông Odachi không hối tiếc về quyết định nhập ngũ của mình. Ông đã đến thăm Đền Yasukuni – nơi chôn cất nhiều thế hệ liệt sĩ của Nhật Bản cùng với một số tội phạm chiến tranh khét tiếng nhất – vài lần mỗi năm để an ủi linh hồn của những người bạn đã chết trong chiến đấu.
Một chiếc khăn mà ông Odachi đeo khi làm nhiệm vụ trong chiến tranh. Nó được làm bằng vải dù, thêu hình hoa Anh Đào và một chiếc mỏ neo màu xanh, biểu tượng của đơn vị.
Ảnh https://www.nytimes.com/2020/12/03/world/asia/japan-kamikaze.html
Lớn lên ở một ngôi làng gần căn cứ không quân, Odachi từ lâu đã bị mê hoặc bởi máy bay, và khi chiến tranh bắt đầu, ông quyết định rằng một ngày nào đó mình sẽ tự tay lái một chiếc. Ông gia nhập lực lượng vũ trang Nhật Bản vào năm 1943 và gia nhập Yokaren, một nhóm thanh thiếu niên ưu tú được đào tạo thành phi công Hải quân.
Ông Odachi chỉ ra rằng Yokaren khác với những đội Kamikaze khác, chủ yếu là những học sinh bị đuổi khỏi trường học, được yêu cầu chết mà không có bất kỳ huấn luyện hay chuẩn bị nào. Tuy nhiên, những người đàn ông trẻ tuổi trong chương trình của ông Odachi vẫn được chuẩn bị để chết trong trận không chiến ngay cả trước khi Nhật Bản tuyệt vọng chuyển sang nhiệm vụ tự sát.
Các học viên được tôn vinh như hoa Anh Đào, một loài hoa có vẻ đẹp ngây ngất lòng người nhưng lại nổi tiếng bởi sự tồn tại ngắn ngủi của nó. Ngay cả những chiếc cúc áo trên đồng phục của họ cũng được in nổi hình bông hoa này như một lời nhắc nhở về cái chết sắp xảy ra trong trận chiến.
Khi ông đến khu vực Đài Loan do Nhật Bản chiếm đóng vào tháng 8 năm 1944, cuộc chiến đang bước vào giai đoạn kết thúc. Lực lượng Nhật Bản đã bị đánh gục bởi ưu thế công nghệ của Mỹ và năng lực sản xuất các cỗ máy chiến tranh vượt trội của quốc gia này. Chiến thắng của quân đồng minh là điều có thể dự liệu, và chiến thuật của Nhật Bản bắt đầu đòi hỏi sự hy sinh con người nhiều hơn.
Trong các trận không chiến, các phi công đã được hướng dẫn “nhắm mục tiêu để tiêu diệt kẻ thù bằng chính các cánh quạt của mình,” ông Odachi viết trong cuốn hồi kỳ “Tất nhiên, cái chết là điều chắc chắn nếu điều này xảy ra, nhưng ít nhất chúng ta cũng sẽ mang theo kẻ thù chết chung”. Chiến thuật dựa trên niềm tin rằng các phi công sẵn sàng từ bỏ mạng sống.
Sức mạnh của niềm tin đó đã được đưa vào thử nghiệm vào tháng 10 năm 1944, khi Hải quân Nhật Bản quyết định đánh cược mọi thứ để ngăn chặn một cuộc tấn công của Mỹ vào các lực lượng của họ ở Philippines, trong trận chiến Vịnh Leyte. Các sĩ quan Nhật Bản đã giải thích cho ông Odachi và đồng đội về kế hoạch sử dụng các nhiệm vụ cảm tử và yêu cầu các tình nguyện viên thực hiện. Khi biết tin này, họ choáng váng và im lặng.
Ảnh https://www.litres.ru/kazuo-odachi/memoirs-of-a-kamikaze/chitat-onlayn/
Ông viết: Chỉ khi các sĩ quan bắt đầu sốt sắng thì một vài người đàn ông đầu tiên mới kiên quyết tình nguyện. “Về cơ bản, chúng tôi đã bị lừa dối để tự tử,” ông nhớ lại. Vào ngày 25 tháng 10, ông Odachi đã chứng kiến cuộc xuất kích thành công đầu tiên của các chiến binh cảm tử cất cánh từ một đường băng bị ném bom ở Philippines. Ông Odachi và các đồng đội của ông đã sớm thấy mình bị kìm kẹp ở đảo quốc này, khi các máy bay ném bom của Mỹ đã phá hủy nhiều máy bay còn lại của phi đội ông.
Nhiều tháng sau, ông và những người khác trốn đến Đài Loan. Vào ngày 4 tháng 4 năm 1945, ông được lệnh thực hiện nhiệm vụ đầu tiên trong 10 tháng làm phi công cảm tử.
Chiếc Zero của ông Odachi – chiếc máy bay chiến đấu nhanh nhẹn của Nhật Bản đã thống trị bầu trời Thái Bình Dương trong những năm đầu chiến tranh – được yêu cầu mang một quả bom nặng 1,100 pound, nặng tới mức không thể qua mặt kẻ thù. Khi các chiến binh Mỹ phát hiện ra, ông đã ném quả bom của mình xuống biển và tìm cách trốn thoát.
Trong lần xuất kích tiếp theo, nhóm của ông không tìm được mục tiêu. Sáu nhiệm vụ tiếp theo cũng kết thúc trong thất bại. Sau mỗi lần thử, nhóm sẽ phải đợi hàng tuần cho tới nhiệm vụ tiếp theo. Mỗi đêm, các sĩ quan thông báo ai sẽ nhận nhiệm vụ bay vào trận chiến ngày hôm sau. Ông viết: “Có cảm giác như trao án tử hình vậy, thật đau đớn”.
Nhưng cuối cùng, ông viết, “chúng tôi đã trở nên thờ ơ với những vấn đề về sự sống và cái chết. Mối quan tâm duy nhất của chúng tôi là làm cho khoảnh khắc cuối cùng có giá trị.”
Ảnh https://bdnews24.com/world/asia-pacific/2020/12/03/he-escaped-death-as-a-kamikaze-pilot.-70-years-later-he-told-his-story
Khoảnh khắc đó vẫn chưa đến với ông Odachi. Trong nhiệm vụ cuối cùng của mình, máy bay của ông đang chuẩn bị cất cánh thì một thành viên của phi hành đoàn mặt đất chạy lên đường băng, hét lên và vẫy tay yêu cầu phi đội dừng lại. Hoàng đế vừa tuyên bố Nhật Bản đầu hàng. Ông sẽ được về nhà.
Những món quà lưu niệm duy nhất của ông từ thời chiến tranh là một số ít các bức ảnh và một món quà từ một phụ nữ trẻ mà ông gặp ở Đài Loan. Ông Odachi chưa bao giờ tiết lộ danh tính của người phụ nữ. Đó là một trong số ít những điều về cuộc chiến mà ông từ chối nhắc đến.
Ông nói, mọi người thường nhận xét rằng Kamikaze “không coi trọng mạng sống của chính họ”. Thế nhưng qua cuốn hồi ký của mình, ông hy vọng sẽ nhắc nhở những người trẻ tuổi không chỉ về cái giá phải trả của cuộc xung đột mà còn về tình người của những người đàn ông trẻ tuổi đã hy sinh mạng sống cho nó.
“Chúng tôi ở cùng độ tuổi với học sinh trung học và sinh viên năm nhất đại học ngày nay,” Ông Odachi nói. “Không có một người nào trong số chúng tôi tự quyết định cái chết của mình.”
Sacchan