Chân dung chó Nhật trước khi “biến” thành thú cưng

Nhật Bản là quốc gia duy nhất trên thế giới có số lượng thú cưng nhiều hơn trẻ em. Cả nước chỉ có 17 triệu trẻ em dưới 16 tuổi, nhưng gần 20 triệu chó mèo được nuôi như thú cưng.

Hầu hết chó được nuôi như thú cưng ở Nhật Bản là giống chó ngoại như chó xù, chihuahua, chó dachshunds,…

Tuy nhiên trong đó có sáu giống chó bản địa ở Nhật Bản. Phổ biến nhất là Shiba và Akita (Hachiko, con chó nổi tiếng nhất ở Nhật Bản là giống Akita), ít được biết đến hơn là Kishu, Shikoku, Hokkaido và Kai.

Tiêu chuẩn này được xác định vào năm 1934 bởi 日本犬保存会 (ihon-ken hozonkai), một tổ chức công chịu trách nhiệm bảo quản và duy trì đăng ký sáu giống chó bản địa của Nhật Bản.

Thành thật mà nói, đối với con mắt của người nước ngoài, sáu giống chó bản địa này trông rất giống nhau. Người ta tin rằng sáu giống chó bản địa là hậu duệ của những con chó được người Jomon, những người di cư sớm nhất đến Nhật Bản mang đến quần đảo Nhật Bản 10-12.000 năm trước.

Đây là một con chó thuộc giống Shiba (Ảnh Wikimedia Commons)

Cho đến thời hiện đại, hầu hết những con chó thuần Nhật đều được sử dụng cho mục đích thực dụng, chủ yếu là săn lợn rừng ở những vùng núi xa xôi. Săn bắt là gốc rễ của mối quan hệ giữa con người và loài răng nanh. Khoảng 20.000 năm trước, con người đã phát triển mối quan hệ cộng sinh với loài sói vì lợi ích chung của cả hai. Sói bảo vệ nơi ở của con người khỏi những kẻ săn mồi về đêm và hợp tác khi con người đi săn các loài động vật hoang dã khác. Từ 15.000 đến 20.000 năm trước, chó sói đã được thuần hóa và tiến hóa thành chó nhà.

Còn đây là một con thuộc giống Kishu, chỉ mới 7 tháng tuổi (Ảnh Wikimedia Commons)

Vì vậy trong lịch sử, chó Nhật Bản là bạn đồng hành săn bắn, không phải vật nuôi. Nếu không sống chung với loài người, hầu hết chúng là những “kẻ lang thang đơn độc”, không thuộc về bất kỳ cộng đồng nào. Theo truyền thống, giáo điều Phật giáo cho rằng chó là loài ô uế. Những con vật này được cho ăn thức ăn thừa, và việc bạn có thể mang chúng vào nhà là điều không tưởng.

Tuy nhiên, rất nhiều người dân trong làng cảm thấy yêu quý những chú chó. Thật vậy, họ ngưỡng mộ vì phẩm chất tinh thần của chúng. Những con chó khi đó được dân làng tin rằng có thể đi lại tự do giữa hiện tại và thế giới bên kia, thậm chí còn được cho là sở hữu sức mạnh tâm linh.

Đó là lý do của các thủ tục đặc biệt được yêu cầu để bảo vệ linh hồn của những con chó đã chết, chẳng hạn như chôn cất ở các địa điểm cụ thể và đưa các vật dụng cụ thể vào mộ của chúng. Mộ chó lâu đời nhất Nhật Bản nằm ở Kishiwada, Osaka. Đây là nơi an nghỉ cuối cùng của một con chó trung thành nổi tiếng được cho là đã sống ở thế kỷ thứ sáu.

Theo truyền thống, trong số các thuộc hạ của Mononobe no Moriya, người đã chiến đấu chống lại Soga để phản đối sự du nhập của Phật giáo vào Nhật Bản, có một người tên là Toritoribe no Yorozu.

Khi lãnh chúa của anh ta bị giết trong trận chiến, Yorozu đã tự kết liễu mạng sống của mình. Chú chó trung thành Shiro của anh đã ngoặm đầu của Yorozu khỏi hiện trường và chôn cất nó. Shiro sau đó đã liên tục canh giữ ngôi mộ của chủ nhân cho đến khi nó chết vì đói.

Chó Shikoku (Ảnh: Wikimedia Commons)

Khi các nhà chức trách triều đình nghe tin về lòng trung thành và sự tận tâm của chú chó, họ cảm thấy vô cùng xúc động và cho phép xây một ngôi mộ cho Shiro bên cạnh chủ nhân của mình.

Cho đến ngày nay, các thành viên của gia đình Tsukamoto, những người tin rằng mình là hậu duệ của Yorozu, tụ tập tại mộ của Yorozu và chú chó săn trung thành của anh ta vào mỗi mùa thu để tưởng niệm. Những lễ tưởng niệm theo kiểu Phật giáo này đã tiếp tục không bị gián đoạn trong gần 1.500 năm.

Câu chuyện của Yorozu và Shiro cho thấy rằng dù “hiện tượng thú cưng” chỉ mới bùng nổ gần đây, những con chó đã được ngưỡng mộ vì lòng trung thành của chúng trong nhiều thế kỷ.

Sacchan
Xem thêm các bài liên quan thú vị khác!
Xem thêm: